Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Chương 5
11
Nhà thêm bốn , ngôi nhà lập tức trở nên chật chội. Hai ông bà thu dọn phòng lớn, lục tung chăn mới , biết đó là để dành cho .
Phu nhân, tiểu thư, Trương ma ma và ngủ ở phòng lớn, thiếu gia thì ở phòng mới xây riêng cho . Hai ông bà hạ tấm cửa cũ dựa đống củi trong bếp xuống, dựng lên, trải chăn lên rằng cứ tạm thời chịu đựng hai ngày, khi trời quang đãng, sẽ nhờ thợ đến đắp một chiếc giường đất.
Phu nhân cảm thấy áy náy, nhưng từ chối , cố chấp bắt Trương ma ma mang chiếc áo choàng lông chồn tuyết của bà đến tặng cho ông bà . Thiếu gia bếp một cái, về phòng lấy chăn giường của , mang chiếc áo khoác lớn luôn mang theo suốt chặng đường đến tặng.
Cuối năm đến gần, nhu cầu về đậu phụ tăng lên, đường tuyết khó , cô cô và cô trượng làm đậu phụ tại quán rượu lớn nhất trong thành vài ngày khi trở về. Cho đến ngày lễ Lạp Bát, trời nắng , cô cô đã trở về.
Ta đang đổ bột ngô nước luộc củ cải, trộn với thức ăn chăn nuôi nguội đủ ấm, lũ heo ăn no sẽ béo lên, Tết đến cũng sẽ ăn thêm vài miếng thịt.
Thiếu gia và tiểu thư đã gần như quen với khí hậu phương Bắc mấy ngày, hai đang đắp tuyết trong sân, thấy tiếng cổng sân mở, giọng tổ mẫu từ bếp vang hỏi ai đến.
Tiểu thư với giọng ngọt ngào đáp: “Tổ mẫu, là một vị phu nhân trẻ tuổi.”
Ta từ chuồng heo , thấy cô cô với khuôn mặt đầy bối rối, tay xách những túi lớn túi nhỏ, và một nam nhân vẻ đen đúa, rắn rỏi xách đầy những thứ, lẽ đó là cô trượng, phu quân của cô cô .
Cô cô thấy còn cầm muôi thức ăn chăn heo, vứt đồ xuống đất, lao tới ôm chặt , khi nhà hiểu rõ ngọn nguồn sự việc, càng dữ hơn.
Sau khi an ủi cô cô, mọi cùng chào hỏi, tổ mẫu kéo tiểu thư , chỉ cô cô và với nàng cùng thiếu gia: “Đây là phu nhân gì , mà là một ngang ngạnh khác trong nhà , con cứ gọi là cô cô là .”
Cô trượng và tổ phụ bếp xem chỗ trống thể đắp giường đất, theo tổ mẫu nấu ăn.
Thiếu gia chạy theo tổ mẫu bảo giúp nhóm lửa, một lúc , lửa nhóm , mặt thiếu gia trắng như tuyết đã dính đầy tro, tổ mẫu vội bảo lấy nước rửa mặt cho , đưa cho một nắm hạt dẻ, bảo phòng chuyện với phu nhân và mọi .
Đến lễ Lạp Bát, trời lạnh thấu x//ương, nên ăn cơm nếp vàng để giữ ấm.
Ta bên cạnh bếp, nấu chín cơm nếp vàng, thỉnh thoảng lật từ đáy nồi để cháy. Tổ mẫu lấy con gà rừng đông cứng từ trong thùng , đó là con gà mà tổ phụ bẫy núi hồi thu.
Bà nhanh tay ch//ặt gà thành từng miếng, trụng nước nóng vớt bọt tiết , để ráo nước. Nồi nóng, dầu lạnh, bỏ tỏi đập dập và ớt khô xào thơm, đổ thịt gà đảo qua, khi gà chuyển màu thì thêm muối tiếp tục xào, đó thêm nước nóng nồi cho ngập thịt gà, múc bỏ nồi đất đặt lên bếp than hầm.
Khi cơm nếp vàng đã nấu chín, bà lấy dưa muối , thái nhỏ và trộn. Rồi bảo đào một cây cải thảo trong hầm, cắt bỏ rễ, chẻ đôi, chẻ tiếp thành từng miếng nhỏ, xào nhanh bếp, đổ một ít giấm là đã món cải thảo xào chua cay. Bà rửa sạch nấm hương đã ngâm từ sáng, mở nắp nồi đất, cho nấm hương, rắc thêm ít muối, tiếp tục hầm.
Ta rửa sạch nồi, tiếp tục canh lửa, bà đổ một chút dầu nồi, đặt miếng đậu phụ tươi cô cô mang đến lên tay, cắt thành từng miếng, áp thành nồi, lật mặt múc , đậu phụ vàng óng hai mặt đã chiên xong.
Cô cô còn mang theo một hũ mỡ heo, tổ mẫu xúc một muỗng nồi, cho hành lá thái sẵn xào, rắc chút muối vừng xào thêm vài lượt, múc một nửa đĩa. Phần còn trong nồi thêm tỏi băm và ớt bột, đổ đậu phụ chiên , đảo qua vài lần múc đĩa.
Ta và con chó vàng nhỏ tổ mẫu, bà đánh một cái, cho một miếng đậu phụ vàng óng, mắng: “Đồ ham ăn!”
Ta cắn một nửa chia cho chó vàng, bà thấy định đánh , vội rụt cổ , phát hiện bà nhét một miếng thịt xông khói thái sẵn miệng .
Ta đang nhai miếng thịt xông khói thơm lừng thì tiểu thư từ ngoài bếp ló đầu , cầm con hổ vải tổ mẫu may cho cô cô ngày , hướng bếp gọi: “Tổ mẫu, cháu ngửi thấy mùi thơm quá!”
Tổ mẫu đổ một bát nước vo gạo nồi, vội gắp một miếng đậu phụ tới, quỳ xuống bên cạnh tiểu thư: “Ồ, A Miên của chúng đói , mau đến ăn một miếng nào.”
Rồi thấy đầu thiếu gia cũng thò : “Tổ mẫu,cháu ngửi thấy mùi thơm quá.”
12
Qua lễ Lạp Bát là đến Tết, lão gia trong đợt lưu đày cuối cùng đã đến Ninh Cổ Tháp.
Cô trượng đã kiểm tra xe ngựa mà chúng dùng để trở về, đưa chúng thăm lão gia, tiện thể giao đậu phụ cho khách hàng trong thành và mua sắm đồ Tết.
Khi gặp lão gia, ông trông vẫn khá khỏe mạnh, số tiền chuẩn đã tác dụng, thịt khô và quần áo bông cũng giúp phần nào, mặc dù ông gầy nhiều nhưng vẫn còn nguyên vẹn. Cũng may là làm nô lệ cho binh lính, với tư cách là phạm nhân quan chức, lão gia phân công làm một số công việc văn thư tại trạm dịch, mỗi mùng một và ngày rằm đến nha môn báo cáo, trình bày sự hối cải và lòng biết ơn đối với triều đình.
Trên đường nhiều phạm nhân đã chet, một số nữ tử theo còn cảnh bi th//ảm hơn, đến đây, thiếu gia siết chặt nắm tay, ánh mắt phức tạp . Phu nhân ôm chặt tiểu thư, nắm lấy tay thút thít.
Để phu nhân và tiểu thư ở chuyện với lão gia, và thiếu gia cùng cô trượng mua sắm đồ Tết, một cách mơ màng, hai tay vẫn nắm chặt thành nắm đấm, mũ rơi xuống vai, áo choàng cũng cài , vài bước, mũi và mặt đã đỏ ửng.
Ta dừng , đội mũ cho , cài áo choàng. Ta gỡ tay định đeo găng tay cho . Chàng cũng dừng , nắm chặt tay , đôi mắt đỏ hoe : “Tiểu Vũ, cảm ơn nàng.”
Mới chỉ đầy một năm, đã cao hơn nhiều . Nhìn đôi mắt trong sáng của , thở dài trong lòng, giãy khỏi tay , kéo tiếp thế giới phủ đầy băng tuyết.
Chúng để cho lão gia mười lượng bạc, quần áo mới và đôi giày lông, cùng bánh bao ngô dẻo mà tổ mẫu đã dậy từ sáng sớm để hấp và lạp xưởng nhà làm, dặn ông hãy tự chăm sóc bản thân, trời lạnh , tuyết đóng băng khó tan, mọi đều đang nép tránh đông, chỉ thể đợi đến khi xuân về mới đến thăm ông. Khi trở về nhà, phu nhân kéo thiếu gia và tiểu thư, một lần nữa cảm tạ tổ phụ tổ mẫu ngớt lời.
Tối hôm đó, mọi đều tâm sự, khó lòng mà ngủ yên.
13
Sáng ngày ba mươi Tết, mọi đều dậy sớm, chỉ trừ thiếu gia.
Khi chúng đã dọn dẹp xong nhà cửa, dán xong hoa văn lên cửa sổ, thiếu gia mới từ trong chiếc áo khoác lông trắng của bước , trông như một con hồ ly mặt ngọc. Cô trượng đã tìm thợ về để xây chiếc giường đất mới, chiếc áo khoác của thiếu gia trở , ngoài lúc ngủ và ăn thì hầu như rời nó.
Phu nhân bảo bà Trương ma ma mang giấy đỏ mua ở trong thành cùng với bút mực , trải bàn ở phòng khách, bắt đầu câu đối. Phu nhân đã hai bộ cho phòng ngủ, còn nhà bếp và chuồng gà thì để tiểu thư thể hiện.
Phu nhân biết Kỷ Nguyệt tỷ đã dạy chữ, khuyến khích thử, cũng một cặp câu đối nhỏ cho chuồng heo: “Kim trư vạn lượng xuân phong tiếu, Trường thị thiên chi cẩu nhật nhàn” (Tạm dịch: “Heo vàng vạn lượng gió xuân , Cây khế ngàn nhánh hàng ngày nhàn nhã”).
Tổ phụ đang giúp bà trong bếp, lén ngoài , vui vẻ với vẻ mặt hân hoan khi thấy chữ của còn kém hơn cả tiểu thư: “Bà ơi, đây mà xem, Tiểu Vũ nhà biết chữ !”
Nhà bao giờ dán câu đối mùa xuân, một phần vì bút mực và giấy đỏ đắt đỏ, phần khác vì ở ngôi làng hẻo lánh hầu như ai biết chữ, ngay cả ở trấn cũng chỉ đếm đầu ngón tay. Vào dịp Tết, nhà nào giàu thì dựng cây đèn lồng, dán hoa văn lên cửa sổ là đã tươm tất.
Tổ phụ cẩn thận hỏi: “Cửa cổng cũng nên dán một bộ chứ?”
Phu nhân đáp: “Nhất định , nhưng cửa cổng là chữ lớn, để Minh ca .”
Ta thiếu gia với ánh mắt nghi ngờ, phu nhân : “Minh ca giỏi về thơ văn kinh thư, nhưng chữ là do cữu cữu của nó đích thân dạy, nó đã cần cù luyện tập nhiều năm, nên chữ của nó thực sự .”
Kỷ Nguyệt tỷ từng với rằng nhà mẹ đẻ của phu nhân ở Giang Nam, nơi nổi tiếng về học vấn, là một trong những gia đình uy tín, những hầu trong nhà ít nhất đều biết chữ. Ca ca của phu nhân là một nhà nho lớn, giảng dạy tại Thư viện Đồng Giang danh tiếng.
Thiếu gia nhận sự nghi ngờ của , hừ một tiếng, cởi chiếc áo khoác lớn và ném cho . Trương ma ma trải tờ giấy lớn đã cắt sẵn, cầm lấy cây bút lông lớn nhất, chấm đủ mực bày thế , tổ mẫu cầm cái xẻng cũng ngoài xem, con chó vàng nhỏ cũng chạy lung tung nữa, ngoan ngoãn bên chân .
Nhìn thiếu gia sắp hạ bút, mọi nín thở, đột nhiên thu bút : “Viết gì đây?”
Mọi gần như ngã ngửa, phu nhân xoa trán, sang ông bà , chắc hẳn đang nghĩ: Sợ rằng đã quá lời về con trai .
Tiểu thư phá vỡ sự ngượng ngùng đầu tiên, ha ha ngớt, nhảy xuống ghế chạy đến bên bàn, cô bé cao bằng cái bàn, cố gắng chồm lên bàn, giọng trong trẻo đề nghị:
“Ca ca, ca ca, ‘Điền viên tiệm phát sinh, tam dương khởi thái; Thảo mộc hàm manh động, tứ tự tiên xuân’ thế nào?”
Phu nhân tiểu thư với vẻ mặt đầy khen ngợi: “Con thật thông minh! Câu ngang ‘Vạn tượng canh tân’ nhé!”
Ông bà biết hiểu hết , nhưng thấy tiểu thư xuất khẩu thành chương, đều ngớt lời khen ngợi.
Thiếu gia đỏ mặt, chấm mực : “A Miên thật thông minh, giỏi hơn ca ca nhiều!” Sau đó liền xong cặp câu đối một cách mạnh mẽ.
Thì thiếu gia là vô dụng, thật sự chữ ! Câu đối bằng chữ triện dán lên cửa cổng, dù là biết chữ cũng thể cảm nhận sự khoáng đạt, cổ kính và đầy khí phách từ những nét bút.
Nhìn căn nhà lần đầu tiên dán câu đối, đông vui, tổ mẫu vung mạnh cái xẻng trong tay: “Đều là những đứa trẻ ngoan, trưa nay ăn qua loa một chút, tối nay bà sẽ làm một bữa thịnh soạn!”